Thời Thiên, danh hiệu là "Thánh Hiền", là Thái thượng trưởng lão của Vấn Thiên Lâu, cũng là truyền nhân của dòng dõi trí giả ở đại lục Cửu Châu.
Tính tình ông điềm đạm, không tranh giành, trong Thất Tiên Vấn Đạo dường như chẳng mấy ai để ý đến sự tồn tại của ông. Nhưng trên thực tế, ông mới là người tuổi cao đức trọng nhất, có tư cách nhất trong bảy người.
Ngay cả Thiếu Ngôn khi chưa đắc đạo cũng phải cúi mình hành lễ bậc hậu bối với ông. Bởi vì con đường ông đi là đạo pháp hiếm thấy và đặc biệt nhất: Vấn Tạo Hóa.
Chiêm tinh, bói âm dương, tính thiên mệnh, hỏi tạo hóa,"Thánh Hiền" Thời Thiên là người thấu hiểu thiên mệnh nhất trên đại lục Cửu Châu. Dù tu vi ông không phải mạnh nhất, nhưng địa vị ông lại vô cùng cao cả, không ai có thể lay chuyển.
Dịch Trần nhìn thấy câu nói của Thời Thiên thì ngẩn ra một lúc lâu, rồi mới nhận ra đây có lẽ là một phép thử, là nhành ô liu đối phương đưa ra để kiểm tra người mới, cô bèn vội vàng gõ chữ đáp lại.
Vô Danh Nhất Y Đới Thủy: [Mời đạo hữu. ]
Thánh Hiền Thời Thiên: [Vậy tại hạ xin mạo muội hỏi: Đạo trời có năm mươi phần, dùng bốn mươi chín phần, chia thành âm dương, tạo thành ba cõi trời đất và người. Bốn mùa tuần hoàn, mười là sự viên mãn, đây đều là đạo lý của trời đất, chẳng hay có đúng chăng?]
Dịch Trần gần như muốn quỳ xuống trước cái nhóm ngữ C này luôn.
Để nhập vai mà mấy người này cũng chịu khó gặm "Chu Dịch" khó hiểu tới vậy luôn? Động cơ "vì tình yêu mà phát điện" này có hơi bị mạnh quá rồi không?
Dịch Trần bắt đầu thấy hơi sợ, học thuật trong nhóm luận đạo này có vẻ hơi quá tầm với cô rồi, có khi cô không trụ nổi mất.
Thánh Hiền Thời Thiên: [Trời đất có số mười, mỗi bên chiếm năm, kết hợp với bốn phương tám hướng tạo thành quẻ, từ đó suy diễn ra muôn vàn hiện tượng của trời đất. Hình tượng Bát quái chính là phiên bản thu nhỏ của trời đất. Đây chính là đạo lý của "Vấn Tạo Hóa". ] (1).
Thánh Hiền Thời Thiên: [Xin hỏi đạo hữu, tại hạ đã rõ "Đại đạo năm mươi, thiên diễn bốn chín", nhưng vì sao lại là "nhân độn nhất"?]
Thiếu niên tóc trắng với gương mặt như tuổi mười tám, mắt được che bằng dải lụa trắng, có chút nghi hoặc cúi đầu xuống. Dáng vẻ trầm tư của hắn vừa sạch sẽ lại thanh tú, nét mặt vốn thản nhiên nay cũng nhiễm một chút u sầu khó hiểu.
Bên này đang trầm ngâm, bên kia Dịch Trần lại âm thầm thở phào nhẹ nhõm.
Vì! Câu này! Cô biết trả lời!
Dịch Trần xắn tay áo, lạch cạch gõ chữ: [Đạo hữu, ta có một câu hỏi. ]
Vô Danh Nhất Y Đới Thủy: [Nếu có một ngày, đạo hữu phải làm một việc cực kỳ khó khăn nhưng không thể không làm, tiền đồ mờ mịt, sống chết không rõ, nên đạo hữu gieo quẻ bói toán, kết quả là thượng thượng đại cát, vậy đạo hữu có thể yên tâm không? Có thể buông bỏ tất cả, bình thản đối mặt không?]
Thánh Hiền Thời Thiên: [Không thể. Đạo hữu, bói toán và mệnh lý không phải là tất cả... ]
Vô Danh Nhất Y Đới Thủy: [Đó chính là "nhân độn nhất". ]
Dịch Trần thản nhiên nói: [Việc do người làm, vận mệnh do người định. Nếu chỉ biết thiên mệnh và nhân quả, rất dễ rơi vào cực đoan, vui quá hóa buồn. Ngược lại, nếu hiểu thiên mệnh và nhân quả mà không đi lệch đường, sẽ có thể hóa nguy thành an. ]
[Thiên đạo để người phàm biết được quẻ tượng chính là để hé lộ một phần của số mệnh ấy. Nói cách khác, việc đạo hữu có thể biết "thiên mệnh", đó cũng chính là "một phần" của thiên mệnh. ]
[Thiên địa có số là mười, trời đất mỗi bên giữ năm, số đã đạt đến cực điểm, khó mà thay đổi. Nhưng nếu "ẩn đi một phần", tức là khuyết một phần trong chuỗi nhân quả của trời đất, ngược lại có thể sinh ra muôn vàn biến hóa, mở ra vô số khả năng. ]
Giống như trong một hội trường có năm mươi chiếc ghế, nếu có năm mươi người thì mọi chỗ đều đầy, dù sắp xếp thế nào cũng không thay đổi được gì.
Nhưng nếu chỉ có bốn mươi chín người, thì năm mươi vị trí ấy có thể thay đổi đủ kiểu, tạo nên nhiều khả năng khác nhau.
[Phần "một" này chính là ranh giới giữa "có thể làm" và "không thể làm". ]
[Nếu hành động mà không làm trái với thiên thời, địa lợi, nhân hòa, thì đó là đại thiện. Nếu cố chấp làm việc không thể, phá vỡ mệnh lý của bất kỳ điều gì trong ba tài, thì đó là bước vào cực số. ] (2).
-
(1):
Trời đất có số là mười, mỗi bên chiếm năm: Trong tư tưởng Âm Dương Ngũ Hành, vạn vật được quy về hai cực Âm – Dương, mỗi cực gồm năm quẻ, nghĩa là 10 quẻ cơ bản, tượng trưng cho đủ bộ Âm Dương Ngũ Hành.
Kết hợp với bốn phương tám hướng tạo thành quẻ: Khi kết hợp số mười (tức năm Âm + năm Dương) với bốn phương (Đông, Tây, Nam, Bắc) và bốn hướng xen kẽ (Đông Bắc, Đông Nam, Tây Bắc, Tây Nam), người xưa lập ra tám quẻ tượng trưng (Càn, Khôn, Chấn, Tốn, Cấn, Ly, Khảm, Đoài).
Từ đó suy diễn ra muôn vàn hiện tượng của trời đất: Tám quẻ đó lại có thể ghép đôi, ghép ba để thành 64 quẻ Kinh Dịch, từ mỗi quẻ suy ra biến hóa của trời đất, con người, vạn vật, ...
Hình tượng Bát quái chính là phiên bản thu nhỏ của trời đất: Hình ảnh trong mỗi quẻ là mô phỏng một phần đặc trưng nào đó của tự nhiên (nắng, mưa, sấm sét, suối, núi, hồ, ... ), nên xem như thu nhỏ, phản chiếu cơ chế vận hành chung của vũ trụ.
Đây chính là đạo lý của "Vấn Tạo Hóa": "Vấn Tạo Hóa" nghĩa là "khảo sát, thăm dò sự tạo thành và biến hóa của vạn vật". Người xưa dùng con số, phương hướng và Bát quái làm công cụ luận giải nguyên lý sinh diệt, biến đổi của vũ trụ, đó là cái lý "Vấn Tạo Hóa".
Tóm lại, câu này nghĩa là từ con số mười (năm Âm – năm Dương), phối hợp với bốn phương tám hướng lập ra tám quẻ, rồi sinh ra vạn tượng của tự nhiên. Và toàn bộ quy trình ấy chính là cách người xưa "thăm dò sự tạo thành và biến hóa" của vũ trụ – tức là "Vấn Tạo Hóa".
(2): Ba tài: Thiên – địa – nhân.